Định hướng phát triển bền vững cho các đô thị vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Hiện vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có tỷ lệ đô thị hóa toàn vùng đạt 31,16%, tăng 4,6% so với năm 2015, khu vực đô thị cũng có sự tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng. Theo Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được cố Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành phê duyệt, hệ thống đô thị ĐBSCL sẽ được xây dựng theo hướng phân bố hợp lý tại các vùng đô thị, dọc theo các hành lang phát triển chính của vùng; mô hình đô thị sinh thái, nén, thích ứng biến đổi khí hậu (BĐKH).
1. Phát triển bền vững đô thị ĐBSCL
Những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng với việc hình thành nhiều khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn tập trung, kéo theo dân số đô thị tăng nhanh cũng đã mang lại nhiều lợi ích cho vùng ĐBSCL song cũng không ít những rủi ro đối mặt với thiên tai và sự biến đổi về môi trường là thách thức mà các đô thị trong vùng đang đối mặt là làm thế nào để thích ứng hệ thống hạ tầng kỹ thuật (đầu tư hạ tầng kỹ thuật chưa theo kịp tốc độ phát triển và mở rộng) với ảnh hưởng của BĐKH. Vì vậy, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, triển khai nhiều giải pháp để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL.
Phát triển khu vực đô thị - công nghiệp động lực tại ĐBSCL. Nguồn: Báo Kinh tế đô thị.
Để cụ thể hóa chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 2623/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 phê duyệt Đề án về “Xây dựng các đô thị Việt Nam ứng phó với Biến đổi khí hậu giai đoạn 2013-2020” và Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 15/1/2018 phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.
Trong những năm qua, hệ thống các đô thị Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, tính đến tháng 11/2020 cả nước có 859 đô thị. Đô thị đã khẳng định vai trò là động lực phát triển kinh tế, là hạt nhân thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội, cơ cấu lao động ở mỗi địa phương, mỗi vùng và cả nước. Hệ thống đô thị phát triển cả về số lượng đô thị, quy mô dân số, diện tích đất đai, các công trình hạ tầng kỹ thuật được cải thiện đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đô thị.
Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật là điều kiện thiết yếu cho tăng trưởng kinh tế - xã hội. Quy mô, chất lượng, sự phân bố hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật như giao thông, cấp nước, thoát nước, chất thải rắn, thông tin liên lạc, truyền tải và phân phối năng lượng… sẽ ảnh hưởng đến sự phân bố các ngành sản xuất và các lĩnh vực kinh tế khác nhau trong xã hội. Việc củng cố, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật góp phần kích thích đầu tư, tạo thuận lợi cho việc xây dựng, mở rộng các đô thị, khu công nghiệp, từ đó thúc đẩy thị trường phát triển, làm gia tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế. Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật còn là điều kiện quan trọng cho quá trình phân bố lại dân cư, lao động. Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật vừa là điều kiện, tiền đề, vừa là kết quả của phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, sự phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật là hết sức quan trọng, có vai trò và ý nghĩa to lớn đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cần tập trung thực hiện tốt những nhóm giải pháp sau để phát triển chuỗi, cụm đô thị đồng bằng bền vững:
- Một là, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế, chính sách tạo thuận lợi cho đô thị hóa, quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị bền vững; nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu.
- Hai là, xây dựng, phát triển hệ thống đô thị ĐBSCL bền vững và đồng bộ về mạng lưới, xử lý tốt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa đô thị và nông thôn. Tôn trọng và thực thi nghiêm Quy hoạch tích hợp vùng ĐBSCL đã được Thủ tướng phê duyệt; tránh tình trạng chia cắt không gian phát triển vùng bằng các quy hoạch tỉnh, thành phố. Trong đó, chú trọng phát triển nhà ở, hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện đại, liên kết, thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Ba là, xây dựng và hoàn thiện mô hình chính quyền đô thị; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý đô thị và chất lượng cuộc sống; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh, an toàn và trật tự đô thị.
2. Phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị vùng ĐBSCL
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị tại vùng ĐBSCL trong thời gian vừa qua đã được các cấp chú ý đầu tư xây dựng đã góp phần rất lớn đối với sự phát triển của các đô thị trong vùng. Một số kết quả đạt được phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị vùng ĐBSCL (tập trung vào các lĩnh vực cấp nước, thoát nước và chất thải rắn) đến nay như sau:
2.1 Về cấp nước
Tổng công suất các nhà máy nước sinh hoạt đô thị vùng ĐBSCL khoảng 1,32 triệu m3/ngày. Tỷ lệ dân cư đô thị được cấp nước sạch bình quân toàn vùng đạt khoảng 89,6% (tăng 1,5% so với năm 2017); tương đương tỷ lệ cấp nước sạch đô thị bình quân của cả nước. Tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch trung bình vùng đạt 22,5%. Trong vùng ĐBSCL đã có 3 tỉnh/thành phố lập và phê duyệt quy hoạch cấp nước vùng tỉnh làm cơ sở quản lý và triển khai các dự án đầu tư (tỉnh Bến Tre, Kiên Giang và thành phố Cần Thơ).
Vai trò của hạ tầng xanh, cấp nước xanh đối với phát triển bền vững đô thị. Nguồn: Tạp chí Cấp thoát nước Việt Nam.
Trước tình hình nhiễm mặn nguồn nước của vùng ĐBSCL trong những năm qua, UBND tỉnh Bến Tre, Long An, Tiền Giang đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ đề xuất đầu tư dự án “Trạm bơm nước thô Cái Bè và hệ thống tuyến ống truyền tải” cung cấp nước thô cho 3 tỉnh Bến Tre, Long An và Tiền Giang ứng phó với BĐKH và xâm nhập mặn. Ngày 01/12/2020, Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo số 389/TB-VPCP về kết luận của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giao Bộ Xây dựng phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan và UBND các tỉnh Tiền Giang, Long An, Bến Tre tổ chức thẩm định điều chỉnh cục bộ Quy hoạch cấp nước vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 2140/QĐ-TTg ngày 8/11/2016) đối với các nội dung liên quan đến đề xuất dự án.
2.2 Về thoát nước và xử lý nước thải
Mạng lưới thoát nước đô thị xây dựng qua nhiều thời kỳ, ở các khu vực đô thị mới tương đối tốt. Tổng lượng nước thải sinh hoạt toàn vùng khoảng 1 triệu m3/ngày. Việc xử lý nước thải đô thị còn hạn chế do thiếu nguồn vốn, khó thu hút đầu tư vì hiệu quả đầu tư thấp. Một số tỉnh thành đã và đang đầu tư các hệ thống thu gom, xử lý nước thải từ nguồn ODA như: TP Cần Thơ (nhà máy xử lý nước thải Cái Răng công suất 30.000m3/ngày), Sóc Trăng (nhà máy xử lý nước thải TP Sóc Trăng công suất 13.200m3/ngày), An Giang (nhà máy xử lý nước thải thành phố Châu Đốc công suất 5.000m3/ngày), Trà Vinh (nhà máy xử lý nước thải thành phố Trà Vinh công suất 9.500m3/ngày).
Đầu tư nguồn lực hoàn thiện hạ tầng cấp nước ở ĐBSCL. Nguồn: Tạp chí Điện tử Thiên nhiên và Môi trường.
Trong giai đoạn 2016-2020, Bộ Xây dựng đã chủ trì, phối hợp với Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ) thực hiện Chương trình Thoát nước và chống ngập úng đô thị ứng phó với BĐKH (FPP) chủ yếu tập trung vào hỗ trợ kỹ thuật cho các tỉnh và các Bộ ngành liên quan, hỗ trợ lập quy hoạch thoát nước, thực hiện và xây dựng hệ thống kỹ thuật liên quan đến quản lý ngập úng tại 03 đô thị ĐBSCL là thành phố Cà Mau (tỉnh Cà Mau), Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang) và Long Xuyên (tỉnh An Giang). Điểm mới trong quy hoạch này là có tính đến các yếu tố BĐKH, mô hình thoát nước bền vững, xử lý nước thải phi tập trung… và xây dựng được 3 mô hình thí điểm hệ thống thoát nước bền vững (SUDS) tại 3 thành phố này, tính toán chi phí vận hành, bảo dưỡng hạ tầng thoát nước chống ngập và xây dựng lộ trình giá dịch vụ thoát nước cho các địa phương và đã đạt mục tiêu đề ra, mang lại kết quả thiết thực và bền vững.
2.3 Về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật
Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, trong đó tập trung đối với kết cấu hạ tầng giao thông, cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải. Cân đối bố trí đủ nguồn lực đầu tư cho các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, đặc biệt là các công trình hạ tầng kỹ thuật trọng điểm tại các đô thị lớn.
Yêu cầu về hạ tầng kỹ thuật trong Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia. Nguồn: Bộ Giao thông Vận tải.
Thực hiện các giải pháp trữ nước, bảo vệ nguồn nước, đảm bảo an toàn nước sạch vùng ĐBSCL.
Nghiên cứu, thực hiện các giải pháp quy hoạch cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, rác thải đô thị và nông thôn phù hợp với vùng ĐBSCL theo định hướng phát triển bền vững trong bối cảnh BĐKH và nước biển dâng.
Nghiên cứu, thực hiện công tác quy hoạch và quản lý cao độ nền đô thị, trong đó đặc biệt chú ý đến quá trình lún của đô thị.
Tăng cường công tác quản lý, đảm bảo tiến độ, hiệu quả và chất lượng công trình hạ tầng kỹ thuật, chống thất thoát, lãng phí.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển đô thị, để thúc đẩy phát triển hạ tầng đô thị và khu dân cư nông thôn tập trung nói chung, đối với vùng ĐBSCL nói riêng thì cần sự chung tay của toàn hệ thống chính trị từ cấp trung ương đến cấp chính quyền địa phương; trong các tỉnh thành và giữa các tỉnh thành, để cuối cùng xây dựng được những cơ chế có tính hệ thống, điều phối trong lập kế hoạch phát triển đầu tư hạ tầng kỹ thuật và những lĩnh vực khác, mang lại lợi ích thiết thực, hữu hình cho người dân của vùng ĐBSCL.